Ưu điểm và nhược điểm của các quy định về thực thi phán quyết trọng tài ở Việt Nam

20/01/2024
Tại Việt Nam, pháp luật điều chỉnh về trọng tài thương mại – những cơ sở pháp lý cơ bản để thiết lập và phát triển phương thức giải quyết bằng trọng tài, đang từng bước được hoàn thiện, hướng tới xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Nội dung tham luận dưới đây góp phần làm rõ thực trạng pháp luật trọng tài hiện nay, trước hết là pháp luật về thực thi phán quyết trọng tài ở Việt Nam.

1. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam

Phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn (khoản 12 Điều 3 Luật TTTM).

Phán quyết của trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có “hiệu lực pháp luật” như quyết định của Tòa án của Việt Nam có hiệu lực pháp luật.

Khi Tòa án được yêu cầu công nhận phán quyết trọng tài, Tòa án không chỉ được yêu cầu công nhận hiệu lực pháp lý của phán quyết, mà còn phải đảm bảo phán quyết đó được thi hành. BLTTDS quy định rằng phán quyết được công nhận sẽ được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự và chỉ được thi hành sau khi có quyết định của Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp luật. (Điều 427 BLTTDS).

Do vậy, công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài là một thủ tục tố tụng đặc biệt do Tòa án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của phán định trọng tài nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của Việt Nam.

2. Ưu điểm và nhược điểm của các quy định về thực thi phán quyết trọng tài ở Việt Nam

2.1 Ưu điểm

Việt Nam đã có khung pháp lý tương đối đầy đủ về thực thi phán quyết của trọng tài. Nhìn vào hệ thống các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh vấn đề thực thi phán quyết trọng tài gồm có: Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài Thương mại 2010, Nghị định 63/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Trọng tài thương mại có thể thấy Việt Nam đã tạo lập khung pháp lý tương đối đầy đủ và ngày càng hoàn thiện về việc thực thi phán quyết trọng tài của Hội đồng trọng tài. Các ưu điểm cơ bản của quy định pháp luật về thực thi phán quyết trọng tài là:

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam coi phán quyết trọng tài có giá trị như bản án của Tòa. Do vậy phán quyết của Trọng tài sẽ được được thi hành luôn mà không cần qua thủ tục trung gian là cho công nhận và thi hành. Đây là ưu điểm cơ bản khi thi hành phán quyết của trọng tài ở Việt Nam đặc biệt khi so sánh với phán quyết trọng tài nước ngoài. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật tố dụng dân sự về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài.

Thứ hai, phán quyết trọng tài được Nhà nước đảm bảo thực thi theo pháp luật thi hành án dân sự. Theo đó Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành, tuy nhiên nếu hết thời hạn thi hành mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thì có thể bị cưỡng chế thi hành theo các biện pháp như: Khấu trừ tiền trong tài khoản; Thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành; Trừ vào thu nhập của của người thi hành; Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; Khai thác tài sản của người phải thi hành phán quyết.. Bên cạnh đó để bảm đảm thực thi phán quyết, các quy định pháp luật cho phép chấp hành viên thi hành phán quyết có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành phán quyết nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Các biện pháp bảo đảm thi hành phán quyết được áp dụng có thể là: phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.

Thứ ba, phán quyết trọng tài có tính chung thẩm, bởi thế giá trị chung thẩm loại trừ khả năng sau khi có phán quyết của trọng tài vụ việc tiếp tục được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm, trừ trường hợp bị yêu cầu hủy, phán quyết có thể được thực thi ngay, do đó tránh việc kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp. Theo quy định pháp luật, vụ việc đã có phán quyết có hiệu lực được ban hành bởi một trung tâm trọng tài thì không được trung tâm trọng tài khác giải quyết. 

2.2 Nhược điểm

Bên cạnh các ưu điểm trên, pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam còn một số bất cập, ảnh hưởng tới hiệu quả thực thi phán quyết trọng tài. Cụ thể:

Thứ nhất, thủ tục yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài

Thực tế áp dụng quy định “hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài … thì có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài” tại Điều 66 và quy định “Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết” tại Điều 8 Luật Trọng tài thương mại 2010 phát sinh một số bất cập như sau:

Một, để xác định phán quyết “không có yêu cầu hủy” mỗi địa phương có cách thực hiện khác nhau. Ở một số địa phương, khi nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài là phía cơ quan thi hành án vẫn đặt ra điều kiện người yêu cầu thi hành án phải chứng minh phán quyết đang được yêu cầu thi hành không là đối tượng của một yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Để thực hiện yêu cầu này đương sự phải cung cấp giấy xác nhận của Tòa án về việc có/ không việc thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Trong khi Tòa án lại không có bất kỳ quy trình hay thủ tục nào để cấp Giấy xác nhận này, việc cấp giấy hoàn toàn phụ thuộc vào thực tiễn của mỗi Tòa án.  Trong khi đó, ở một số địa phương, cơ quan thi hành án dân sự và Tòa án có sự liên thông, phối hợp rất chặt chẽ. Theo đó, trước khi nhận đơn yêu cầu của người được thi hành phán quyết trọng tài, cơ quan thi hành án dân sự có công văn đề nghị tòa án có thẩm quyền, nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết, nhằm xác nhận phán quyết trọng tài có bị Tòa án tuyên hủy hoặc có đơn yêu cầu hủy hay không, khi nhận được văn bản về việc người phải thi hành phán quyết trọng tài không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hoặc nhận được quyết định không hủy phán quyết trọng tài thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ thông báo nhận đơn yêu cầu và thụ lý thi hành án, ra quyết định thi hành án và chỉ định chấp hành viên thực hiện. Trường hợp tòa án thông báo đã thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của người phải thi hành phán quyết trọng tài thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ trả lại đơn yêu cầu, hướng dẫn người được thi hành phán quyết trọng tài chờ kết quả giải quyết của tòa án. Rõ ràng, cơ chế liên thông, phối hợp sẽ đảm bảo tốt hơn việc bảo vệ quyền lợi của đương sự.

Hai, trên thực tế các Trung tâm Trọng tài Thương mại thường tập trung tại các thành phố lớn là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ chí Minh, các phán quyết trọng tài chủ yếu được ban hành tại các trung tâm trọng tài đặt tại hai thành phố này. Các doanh nghiệp thường có hoạt động kinh doanh trên cả nước, việc quy định cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết có thể dẫn tới khó khăn khi thi hành phán quyết đối với doanh nghiệp không có trụ sở kinh doanh tại hai thành phố này. Với các doanh nghiệp mà hầu hết tài sản của doanh nghiệp sẽ tập trung ở nơi doanh nghiệp có trụ sở chính thì để thực thi phán quyết trọng tài đặc biệt trong trường hợp cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm thi hành cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết và cơ quan thi hành án nơi doanh nghiệp có tài sản để đảm bảo quá trình thực thi phán quyết không bị kéo dài.

Thứ hai, quy định về hủy phán quyết trọng tài

Khi phán quyết trọng tài bị hủy bởi tòa án thì không thể thực thi được. Ở một số quốc gia, phán quyết trọng tài vẫn được thi hành cho đến khi có lệnh mới của Tòa án về việc dừng phán quyết trọng tài đó. Tuy nhiên ở Việt Nam, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là một trong những rào cản để thực thi phán quyết sau khi phán quyết đó đã được Hội đồng trọng tài ban hành. Nhận thấy, hủy phán quyết trọng tài là cần thiết (là cơ chế giám sát cho việc giải quyết tranh chấp của trọng tài) nhưng quy định hủy phán quyết trong pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam còn một số bất cập, ảnh hưởng đến việc thực thi phán quyết trọng tài đó là:

Một, các căn cứ hủy phán quyết trọng tài được nêu tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010 còn chưa rõ ràng dẫn tới việc áp dụng quy định trong thực tế còn thiếu thống nhất. Cụ thể:

  • Về căn cứ “thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật Trọng tài thương mại”, Nghị quyết 01/2014/NQ- HĐTP có hướng dẫn cụ thể tại Điều 14. Theo đó, Tòa án sẽ chỉ ra quyết định, hủy phán quyết trọng tài khi xét thấy đó là những “vi phạm nghiêm trọng” và cần phải hủy nếu Hội đồng trọng tài không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa án quy định tại Khoản 7 Điều 71 Luật trọng tài thương mại 2010. Tuy nhiên việc nhận định như thế nào là “vi phạm nghiêm trọng” vẫn được các Tòa án áp dụng không thống nhất.
  • Về căn cứ “tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài”. Theo Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài được xác định khi tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh chấp trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại và tranh chấp khác theo quy định pháp luật được giải quyết bằng trọng tài. Áp dụng quy định đó, vấn đề xác định thẩm quyền của trọng tài trong trường hợp có “ít nhất một bên có hoạt động thương mại” và các tranh chấp liên quan bất động sản gặp một số khó khăn. Thật vậy, hiện nay việc xác định thẩm quyền của trọng tài trong các tranh chấp mà ở đó một bên có hoạt động thương mại ở các lĩnh vực lao động, môi trường… hay tranh chấp hợp đồng mua bán, chuyển nhượng bất động sản có thuộc thẩm quyền trọng tài hay không vẫn còn có những quan điểm khác nhau. Chiếu theo quy định tại Khoản 3, 4 Điều 8 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn chi tiết điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, pháp luật Việt Nam có sự phân biệt tranh chấp liên quan bất động sản thành 02 loại đó là: tranh chấp về bất động sản/ có đối tượng là bất động sản và tranh chấp không có đối tượng là bất động sản. Đối với tranh chấp về bất động sản thì chỉ có Tòa án nơi có bất động sản mới có thẩm quyền giải quyết, còn tranh chấp liên quan bất động sản nhưng không có đối tượng là bất động sản như thừa kế tài sản, hôn nhân và gia đình… thì Tòa án vẫn có thẩm quyền nhưng không xác định theo thẩm quyền riêng biệt về lãnh thổ. Tuy nhiên phân loại tranh chấp liên quan bất động sản như vậy chưa được xác định có thể áp dụng khi xác định thẩm quyền của trọng tài hay không. Trong khi đó, các quy định pháp luật chuyên ngành như Luật kinh doanh bất động sản, Luật nhà ở không quy định nhưng cũng không hạn chế, loại trừ thẩm quyền của trọng tài. Do đó, thực tế còn quan điểm khác nhau dẫn tới việc hủy phán quyết trọng tài do “không thuộc thẩm quyền” không thống nhất.
  • Về căn cứ “chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo”, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã có quy định đầy đủ hơn Luật trọng tài thương mại 2010 rất nhiều về cái vấn đề chứng cứ thu thập chứng cứ cũng như vấn đề đánh giá chứng cứ, nguồn chứng cứ, … tuy nhiên không có căn cứ để áp dụng tương tự, toàn bộ các quy định về chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự trong tố tụng trọng tài.
  • Về căn cứ “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, quy định này thiếu rõ ràng nên việc áp dụng một cách tùy tiện là không thể tránh khỏi. Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP đã có hướng dẫn cụ thể về căn cứ này: "Khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án phải xác định được phán quyết trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật và nguyên tắc đó có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài”, nhưng trên thực tế việc tòa căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 68 để hủy phán quyết trọng tài mà không nêu rõ phán quyết sai chỗ nào, vi phạm nội dung cụ thể ra sao là không thuyết phục và đó là tình trạng vẫn rất phổ biến.

Hai, không có cơ chế giám sát quyết định hủy phán quyết trọng tài của Tòa án dẫn tới tình trạng việc hủy phán quyết trọng tài còn có phần tùy tiện. Thực tế hiện nay các quyết định tuyên hủy phán quyết trọng tài của Tòa án không có trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm. Như vậy, quyết định hủy phán quyết trọng tài của tòa àn không bị giám sát. Đây mặc dù là một nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng ở Việt Nam, việc thiếu cơ chế giám sát quyết định hủy phán quyết trọng tài của tòa án có thể dẫn tới hậu quả tiêu cực.

Ba, thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của chủ thể thực hiện quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài mà không có căn cứ chứng minh. Luật trọng tài thương mại 2010 phân chia nghĩa vụ chứng minh về căn cứ hủy phán quyết trọng tài thành 02 trường hợp: đối với căn cứ tại các Điểm a, b, c, d của Khoản 2 Điều 68 thì bên yêu cầu phải chứng minh trước Tòa án, phán quyết trọng tài vi phạm một hay nhiều các căn cứ đó, đối với căn cứ tại điểm đ Khoản 2 Điều 68 thì Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Quy định về nghĩa vụ chứng minh là cần thiết để ngăn chặn sự lạm dụng của bên yêu cầu. Tuy nhiên, việc thiếu vắng các quy định mang tính chất chế tài nhằm ràng buộc trách nhiệm của chủ thể, ví dụ trách nhiệm bồi thường nếu yêu cầu mà không có chứng cứ chứng minh hoặc chứng cứ chứng minh không chính xác sẽ làm giảm ý nghĩa của các quy định về nghĩa vụ chứng minh khi yêu cầu này.



Bài viết liên quan
Điều kiện và thủ tục thi hành phán quyết trọng tài của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
19/01/2024
Đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu hóa và giao lưu thương mại, nhu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam cũng bắt đầu tăng theo. Các vấn đề pháp lý liên quan đến công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
Địa Điểm Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài
18/01/2024
Địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không nhất thiết phải là nơi sẽ tổ chức các phiên họp giải quyết tranh chấp, kể cả nơi tổ chức phiên họp ra phán quyết.
Quy trình và thủ tục cần thiết để thi hành phán quyết trọng tài ở Việt Nam
18/01/2024
Với những ưu việt của thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài Thương mại, ngày càng có nhiều chủ thể lựa chọn giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường Trọng tài. Theo đó ngày càng nhiều phán quyết Trọng tài được đưa ra thi hành.
Thẩm quyền giữa trung tâm trọng tài và hội đồng trọng tài trong quá trình tố tụng được phân định như thế nào?
17/01/2024
Trung tâm Trọng tài và Hội đồng Trọng tài do Trung tâm thành lập là hai thực thể khác nhau và giữ vai trò khác nhau trong quá trình tố tụng trọng tài. Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của hai thực thể này được qui định trong Luật TT. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng, không ít các vấn đề nảy sinh chưa có được cách xử lý thống nhất. Trước khi tìm hiểu về cách xử lý, hãy phân tích thẩm quyền của hai thực thể này về mặt lý luận.
Vai trò của Tòa án trong việc giám sát, kiểm tra Trọng tài
06/01/2024
Vai trò của Tòa án đối với Trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế ở Việt Nam là một vấn đề quan trọng để xác định vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa Tòa án với Trọng tài, từ đó phân định được thẩm quyền xét xử của Tòa án và Trọng tài, đảm bảo không có sự lạm dụng “quyền lực công” của Tòa án mà lấn át “quyền lực tư” của Trọng tài; mặt khác, giúp cho Trọng tài luôn soi xét lại mình trong việc thực thi nhiệm vụ.
Vai trò của tòa án đối với trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
06/01/2024
Trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình, Tòa án luôn độc lập với Trọng tài nhưng trong hoạt động của Trọng tài thì không thể thiếu được vai trò hỗ trợ, trợ giúp; giám sát, kiểm tra từ phía Tòa án

0965996583